Thứ Ba, 23/06/2015 12:53
Phát triển chăn nuôi bền vững, chủ động hội nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) là chủ đề của hội thảo tổ chức ngày 22/6 tại TP.Hồ Chí Minh. Hội thảo do Tổng hội Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam phối hợp với Cục Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và PTNT tổ chức.
Nông nghiệp Việt Nam đóng góp từ 18-22% GDP cho nền kinh tế và 23-35% giá trị xuất khẩu với mức tăng trưởng nhanh và ổn định trong thời gian dài cùng cơ cấu chuyển dịch theo hướng tích cực. Đóng góp vào những kết quả trên có những tiến bộ đáng kể của ngành chăn nuôi với sự phát triển nhanh và ổn định của đàn lợn với 26,8 triệu con, đàn bò 5,2 triệu con (trong đó đàn bò sữa đạt hơn 217.000 con), đàn gia cầm 328,1 triệu con.
Chăn nuôi nhỏ lẻ đang là những thách thức lớn khi Việt Nam tham gia AEC và TPP.
Tuy nhiên, theo nhận định của PGS.TS Trần Đình Thiên, Viện Kinh tế Việt Nam, sau khi Việt Nam chính thức gia nhập AEC và TPP, bên cạnh những cơ hội sẽ có cũng tiềm ẩn một số thách thức: Sức cạnh tranh sẽ gay gắt hơn giữa sản xuất, dịch vụ trong nước với hàng hóa, dịch vụ nước ngoài, cũng như trong việc bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ, các vấn đề lao động, môi trường khi mà hàng hóa, dịch vụ hay đầu tư từ các nước TPP sẽ được ưu tiên khi tiếp cận thị trường Việt Nam.
Trong khi đó, khả năng cạnh tranh hạn chế của doanh nghiệp Việt Nam trên phạm vi quốc tế có thể tác động bất lợi tới những ngành, địa phương chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển, kể cả trong nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ.
Những ngành sản xuất của Việt Nam thực sự gặp khó khăn sẽ là thịt lợn, thịt bò. Các ngành bị tác động tương đối mạnh bao gồm: thực phẩm chế biến, rượu và hóa mỹ phẩm. Riêng với xăng dầu, nếu xóa bỏ thuế nhập khẩu, Việt Nam sẽ mất đi một trong các công cụ điều hành giá quan trọng. Đây là tác động mà các cơ quan quản lý nhà nước cần phải tính đến một cách thận trọng.
“Sản xuất nông nghiệp hiện nay không còn là liên kết 4 hay 5 nhà nữa mà phải nằm trong chuỗi liên kết toàn cầu”, ông Thiên nhấn mạnh
Ông Hồ Xuân Hùng, Chủ tịch Tổng hội Nông nghiệp và PTNT Việt Nam, cho biết, năm 2015 là bước ngoặt đối với nền nông nghiệp Việt Nam nói chung cũng như ngành chăn nuôi nói riêng trước cánh cửa hội nhập quốc tế sâu rộng. Ngoài 8 hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết và bắt đầu quá trình thực hiện, Việt Nam đang thảo luận để tiến tới ký kết 6 FTA nữa, trong đó có cả AEC và TPP. Vấn đề đặt ra là ngành chăn nuôi Việt Nam cần chuẩn bị những gì để khẳng định vị thế trong “sân chơi” khốc liệt này.
Theo ông Lê Bá Lịch, Chủ tịch Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi Việt Nam, ngành chăn nuôi Việt Nam hiện đang phụ thuộc khá nhiều về vật tư đầu vào như con giống, thức ăn, thuốc thú y nên chi phí đầu tư cho sản xuất thường cao. Bên cạnh đó, ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi trong nước phụ thuộc vào nhập khẩu tới 50% nguồn nguyên liệu. Ước tính mỗi năm, chúng ta phải nhập trên 8 triệu tấn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, trị giá trên dưới 3 tỷ USD. Trong đó, các loại nguyên liệu giàu đạm như khô dầu đậu tương, bột xương thịt, bột cá nhập khẩu 90% và khoáng chất, vitamin nhập tới 100%. Về thuốc thú y, mỗi năm nước ta cũng phải nhập một lượng lớn để phục vụ chăn nuôi trong nước, nhất là vaccine. Chất lượng con giống đưa tới người chăn nuôi chưa đảm bảo. Bên cạnh đó, tình trạng giết mổ chủ yếu là thủ công, thiếu điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm cũng góp phần làm giảm giá trị gia tăng của sản phẩm. Hiện nay, giết mổ công nghiệp, bán công nghiệp còn khá ít, chỉ chiếm khoảng 20% trên tổng lượng thịt.
Theo ông Nguyễn Xuân Dương, Phó cục trưởng Cục Chăn nuôi, tổng giá trị sản xuất của toàn ngành chăn nuôi hiện đạt khoảng 140-150 nghìn tỷ đồng. Quy mô sản xuất vẫn nhỏ lẻ, chỉ có khoảng 23.000 trang trại, ít hơn nhiều so với các quốc gia khác. Mật độ ngành chăn nuôi lợn ở Việt Nam lớn hơn hẳn các quốc gia khác, do đó ngành chăn nuôi sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc xử lý ô nhiễm và dịch bệnh.
“Những giải pháp để tái cơ cấu lĩnh vực chăn nuôi cần tập trung vào giải pháp quản lý nhà nước về lĩnh vực chăn nuôi; giải pháp về quy hoạch; phòng chống dịch bệnh; khoa học kỹ thuật và khuyến nông; sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm và các giải pháp về cơ chế, chính sách”, ông Dương nói.
Tiến sỹ Đoàn Xuân Trúc, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Chăn nuôi Việt Nam cho biết, những thách thức lớn đối với ngành chăn nuôi khi Việt Nam tham gia hội nhập đó là: quy mô nhỏ lẻ chiếm tỷ lệ cao, sản xuất còn manh mún, tự phát; năng suất vật nuôi thấp, giá thành cao; đầu vào của ngành chăn nuôi còn phụ thuộc khá nhiều vào nước ngoài; quá ít cơ sở giết mổ đảm bảo tiêu chuẩn. Mặt khác, việc liên kết theo chuỗi giá trị trong ngành còn yếu, nguy cơ dịch bệnh nguy hiểm vẫn còn cao; công tác quy hoạch chăn nuôi ở nhiều địa phương rất khó khăn; thiếu thông tin về hội nhập kinh tế ở nhiều địa phương, doanh nghiệp, trang trại…
“Để ngành chăn nuôi chủ động hội nhập cần tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cầu ngành chăn nuôi; nhanh chóng củng cố và làm tốt khâu giống vật nuôi; tổ chức sản xuất theo liên kết chuỗi giá trị; quản lý tốt việc sản xuất thức ăn chăn nuôi; chủ động khống chế dịch bệnh nguy hiểm. Ngành chăn nuôi cũng cần có chương trình đào tạo nguồn nhân lực; thu hút đầu tư từ doanh nghiệp lớn trong nước; có chương trình xúc tiến thương mại và tận dụng mọi cơ hội để xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi”, ông Trúc đề nghị.
Trong bối cảnh hội nhập sâu, rộng, ngành chăn nuôi Việt Nam đã và đang lộ rõ điểm yếu như quy mô nhỏ lẻ chiếm tỷ lệ cao, năng suất thấp, giá thành sản phẩm cao, chưa giải quyết triệt để dịch bệnh… Điều đó đã tạo ra không ít áp lực cho cả cơ quan quản lý và người nông dân.
Các chuyên gia cảnh báo, nếu ngành chăn nuôi không giảm được giá thành sản xuất xuống bằng hoặc thấp hơn các nước thì thị trường thực phẩm thịt ngoại sẽ chiếm lĩnh. Điểm yếu của hai mặt hàng chủ lực trong chăn nuôi của nước ta là thịt bò và thịt lợn có giá thành quá cao. Trong khi thịt bò Úc đưa sang Việt Nam với thuế nhập khẩu 5% và các khoản phí khác thì giá cũng chỉ nhích hơn một chút so với thịt bò trong nước.
Theo Báo Kinh Tế Nông Thôn ngày 23/6/2015